Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).
Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).
PV: Trong chiến tranh hay hòa bình, trong khó khăn hay thuận lợi thì Đảng ta cũng luôn kiên định, kiên trì mục tiêu là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì sao chúng ta phải luôn gắn kết hai mệnh đề này chặt chẽ với nhau như vậy?
TS Nguyễn Thị Liên: Trước hết cần khẳng định, độc lập dân tộc và CNXH có mối quan hệ thống nhất, biện chứng với nhau. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã khẳng định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo của mình. Như vậy, phải giành được độc lập dân tộc mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội và có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập dân tộc.
PV: Nếu tách rời độc lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội thì hệ lụy sẽ như thế nào?
TS Nguyễn Thị Liên: Đã có thời điểm các Đảng Cộng sản phải trả giá cho những sai lầm, khuyết điểm. Mà chúng ta cũng thấy một minh chứng rõ ràng, đó là thời kỳ sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu. Đó chính là ví dụ rõ nét nhất. Song, cần nhận thấy, đây là sự sụp đổ của một mô hình cũ, cụ thể của CNXH đã lạc hậu. Quá trình lãnh đạo cách mạng thì Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta tiếp tục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình lãnh đạo ấy, thì Đảng và Nhân dân ta vừa thực hiện vừa gắn với nghiên cứu, đánh giá và dự kiến những mô hình phù hợp, những bước đi phù hợp với từng giai đoạn.
PV: Trong bối cảnh thế giới còn đầy những bất ổn, chiến tranh, xung đột thì Việt Nam chúng ta vẫn giữ được hòa bình ổn định. Đó là minh chứng sinh động, rõ nét khẳng định con đường mà chúng ta lựa chọn là đúng đắn?
TS Nguyễn Thị Liên: Chúng ta cũng biết là, hiện nay, mặc dù hòa bình, ổn định vẫn là xu thế chủ đạo, song những diễn biến phức tạp, mất ổn định giữa các nước trong khu vực hay trên thế giới vẫn diễn ra, tồn tại những bất ổn. Và những bất ổn này là nguyên nhân dẫn tới xung đột, bùng phát xung đột, thậm chí là những xung đột sắc tộc, tôn giáo tranh chấp lãnh thổ, tranh chấp tài nguyên, can thiệp lật đổ…vẫn cứ diễn biến phức tạp. Các điểm nóng vẫn tồn tại và mở rộng ở nhiều khu vực trên thế giới.
Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn vừa cảnh báo số người di cư trên thế giới có thể tăng mạnh do tác động của xung đột, khủng hoảng lương thực và biến đổi khí hậu. Trước những diễn biến phức tạp, bất ổn như thế, chúng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, đem lại độc lập, tự chủ thực sự cho nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân.
PV: Mỗi thời kỳ cách mạng của đất nước lại đặt ra cho chúng ta những cơ hội, thách thức mới. Vậy trong tình hình hiện nay, thì đâu được coi là mẫu số chung để chúng ta có thể quy tụ, tập hợp được sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân?
TS Nguyễn Thị Liên: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân tộc. Sau này, tư tưởng của Bác được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tư tưởng đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc giữ vị trí đặc biệt quan trọng, nhất quán và xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy là mục tiêu đó cũng chính là đích đến quy tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với mục tiêu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho thấy sự hòa quyện giữa ý Đảng - Lòng dân; giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với nguyện vọng của toàn thể nhân dân, xuất phát từ nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Như vậy, đại đoàn kết toàn dân tộc là giá trị cốt lõi, là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thưa PGS.TS Nguyễn Lân Trung, tiếng nói, chữ viết là của cải vô cùng quan trọng và quý giá của bất kỳ dân tộc nào trên thế giới, là niềm tự hào của mỗi dân tộc. Tiếng Việt của dân tộc Việt Nam cũng như vậy. Trải qua các giai đoạn phát triển, Tiếng Việt của chúng ta đã được hình thành và có vai trò như thế nào?
– Tiếng Việt có một lịch sử hình thành lâu dài, sự ra đời, tồn tại và phát triển của chữ viết tiếng Việt cũng là một nỗ lực rất lớn của biết bao thế hệ. Lấy ví dụ suốt 1.000 năm Bắc thuộc, Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu nặng của tiếng Hán, nhưng rồi chúng ta cũng có chữ viết riêng, đó là chữ Nôm – hệ thống văn tự ngữ tố dùng để viết tiếng Việt, dựa trên cơ sở chữ Hán tạo ra các chữ mới bổ sung cho việc viết và biểu đạt các từ thuần Việt không có trong bộ chữ Hán ban đầu. Rồi đầu thế kỷ 17, khi các tu sĩ Phương Tây Dòng Tên vào truyền giáo ở nước ta, họ đã bắt đầu xây dựng phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh, làm tiền đề cho cả một quá trình lâu dài hình thành và phát triển nên chữ Quốc ngữ.
Dù trải qua không ít thăng trầm, nhưng nhân dân ta đã luôn làm tất cả để bảo tồn ngôn ngữ, ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, hồn cốt của dân tộc. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, của giao tiếp, ngôn ngữ đồng thời là công cụ để truyền tải cả một nền văn hóa, một tinh thần dân tộc. Câu nói “Tiếng Việt còn, nước Nam còn” luôn văng vẳng bên ta, khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của ngôn ngữ dân tộc.
Trải qua thời gian, người dân Việt Nam không ngừng giữ gìn, cải tiến tiếng Việt, làm cho tiếng nói của dân tộc ngày càng giàu và đẹp, luôn là niềm tự hào của con người Việt Nam trước bạn bè quốc tế. Vậy, Tiếng Việt giữ vị trí như thế nào trong việc phát triển đất nước, thưa ông?
– Trong lịch sử phát triển dân tộc, chúng ta luôn có được một quan điểm đúng đắn, nhất quán về sứ mệnh bảo tồn, duy trì và phát triển tiếng Việt. Còn nhớ từ những ngày đầu tiên, ngay sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, khi giặc đói còn đang hoành hành khắp nơi, Hồ Chủ tịch đã kêu gọi đồng bào bên cạnh nhiệm vụ chống giặc ngoài, giặc đói còn phải chống cả giặc dốt nữa. Phong trào Bình dân học vụ xóa nạn mù chữ với phương châm “người biết chữ dạy người chưa biết chữ” đã mang lại con chữ cho biết bao người dân.
Ngôn ngữ là một cấu phần của văn hóa, ngôn ngữ truyền tải văn hóa, các loại hình văn hóa nghệ thuật, những giá trị, những nét đặc thù văn hóa được thể hiện thông qua ngôn ngữ và bằng ngôn ngữ. Chúng ta tự hào có được một kho tàng văn thơ tiềm tàng, một nền văn học đồ sộ làm nên những giá trị nhân văn của dân tộc. Ngôn ngữ góp phần quan trọng phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ, với một hệ thống thuật ngữ của riêng mình. Không phải bất cứ đất nước đang phát triển nào cũng đều có thể giảng dạy ở tất các các cấp học, các bậc học bằng tiếng mẹ đẻ của dân tộc mình.
Tiếng Việt đã góp phần tạo nên bản sắc Việt Nam trong suốt quá hình thành và phát triển dân tộc, là nhân tố, là chìa khóa tạo nên sự thống nhất, hòa hợp, đoàn kết trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước Việt Nam, tiếng nói Việt Nam luôn là niềm tự hào vang lên trên các diễn đàn, trên trường quốc tế.
Giữ gìn và làm giàu tiếng Việt là trách nhiệm của toàn dân. Song, cuộc sống phát triển không ngừng trong bối cảnh sự thâm nhập mạnh mẽ của tiếng nước ngoài, tiếng Việt trong quá trình sử dụng đã đặt ra rất nhiều thách thức liên quan đến tính toàn vẹn, sự trong sáng và phong phú. Liệu có phải ý thức giữ gìn tiếng Việt có lúc, có nơi còn chưa được quan tâm đúng mức?
– Thế giới ngày nay là một thế giới phẳng, sự giao lưu giữa các thứ tiếng, sự thâm nhập của một ngôn ngữ nước ngoài vào là không tránh khỏi và ngày càng diễn ra với tốc độ cao hơn, nhưng ta nên coi đó là một tất yếu, mặt khác sự giao thoa ngôn ngữ đó còn có thể mang lại nhiều điểm tích cực cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Vấn đề là thái độ và sự ứng xử của chúng ta như thế nào trước những xung đột nếu có đó. Việt Nam cũng không nằm trong ngoại lệ, sự “xâm nhập” của các ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh vào nước ta là rất mạnh mẽ, đôi lúc gây ra một tình trạng có thể nói là “lộn xộn” quá mức.
Chúng ta đã thấy trong cuộc sống và ngay cả tại các diễn đàn khoa học sự lạm dụng tiếng nước ngoài, sự sử dụng chắp vá, có thể nói là khá bừa bãi, thậm chí là sự khoa trương có phần lố bịch của một bộ phận người dân, nhà khoa học. Đặc biệt là sự lạm dụng này đang xảy ra ngay trên các phương tiện thông tin đại chúng, gây ra rất nhiều hệ lụy và ảnh hưởng xấu tới công chúng. Đáng tiếc là xu hướng này có phần tăng lên trong những năm gần đây do xu thế mở cửa của đất nước. Giáo dục tiếng Việt trong nhà trường phổ thông, giáo dục gia đình trong lời ăn tiếng nói của con cháu, sự uốn nắn của người lớn, người có trách nhiệm đối với sự sử dụng tiếng Việt lệch chuẩn của giới trẻ…, cũng chưa được quan tâm thích đáng gây ra một thực trạng khá đau lòng như hiện nay.
Đã đến lúc cần phải có một sự xem xét nghiêm túc, một sự quyết tâm vào cuộc quyết liệt hơn nữa của các cơ quan có thẩm quyền, kể từ cấp cao nhất, có sự khảo sát toàn diện, điều tra xã hội có chiều sâu và sự thẩm định chặt chẽ để có thể có được một bức tranh tổng thể về ảnh hưởng của các xu thế này đến sự giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, từ đó xây dựng và triển khai hệ thống các giải pháp hiệu quả nhất.
Thời gian qua, chúng ta cũng đã có những nỗ lực không ngừng, những bài nghiên cứu sâu, những hội nghị, hội thảo, những quyết sách mới, những thay đổi trong sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy tiếng Việt và ngữ văn ở các cấp học, những chương trình về tiếng Việt trên báo, đài, truyền hình…, nhưng thật sự từng ấy là chưa đủ vì dường như nó thiếu đi một định hướng chung, một chiến lược xuyên suốt, một quyết tâm thực sự đủ lớn để làm thay đổi nhận thức chung, từ các cấp ban ngành, các thiết chế xã hội, cho đến người dân. Hệ thống giải pháp cần căn cơ và toàn diện, các chế tài đủ mạnh đi kèm với các chế độ tôn vinh, khen thưởng cũng sẽ góp phần nâng cao ý thức của người sử dụng tiếng Việt, đó là điều cốt lõi nhất.
Tôi cũng cho rằng Nhà nước cần xem xét lấy một ngày trong năm làm “Ngày tôn vinh và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”.
Thưa ông, cuộc sống càng phát triển năng động thì tốc độ gia tăng vốn từ vựng mới ngày càng cao. Đó là xu thế tất yếu. Cần phải làm gì để chấn chỉnh những lệch lạc trong sử dụng ngôn ngữ, điều chỉnh hành vi ngôn ngữ?
– Trước hết, những thiết chế được giao nhiệm vụ nghiên cứu và tư vấn chính sách, như Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hội nhà văn Việt Nam, hệ thống các trường Đại học…, cần thể hiện rõ hơn nữa vai trò của mình. Các cơ quan tuyên giáo, các cơ quan thông tin đại chúng, các Nhà xuất bản…, cũng đóng một vai trò quyết định. Đối với ảnh hưởng không tốt từ sự thâm nhập của tiếng nước ngoài thì cần quan niệm giao lưu văn hóa là xu hướng chung, nhưng làm sao để “để hòa nhập nhưng không hòa tan” lại là vấn đề khác.
Cuối cùng, nói gì thì nói, ý thức của người dân là cái quan trọng nhất, ý thức đó không tự nó sinh ra mà là sản phẩm của cả một quá trình giáo dục, từ gia đình đến nhà trường, từ công sở nơi làm việc đến đến các diễn đàn, các phương tiện thông tin đại chúng…, tất cả sẽ làm nên một sức mạnh tổng hợp để ở mọi nơi, mọi lúc người dân được sống trong một không khí trong lành của một tiếng Việt trong sáng, giàu nhạc điệu, giàu sức sống.
Nhắc đến một Hội nghị Văn hóa, nhiều người thường chỉ nghĩ đến các nội dung liên quan đến các loại hình nghệ thuật, đến văn học, thơ ca, đến các phong tục tập quán…, nhưng thực ra một yếu tố nằm cơ hữu trong tất cả các nội dung đó, góp phần quan trọng tạo nên những giá trị đó là ngôn ngữ lại có phần chưa được quan tâm thích đáng!
Hy vọng rằng trong Hội nghị Văn hóa sắp tới, tiếng Việt sẽ tìm lại được vị trí vốn có của nó, vị thế, vai trò, và nhu cầu bức thiết giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt được đặt lên ngang tầm với những vấn đề quan yếu khác, chúng ta sẽ có hẳn một tiểu ban riêng dành cho tiếng Việt, để sau Hội nghị, đất nước sẽ được chứng kiến một luồng sinh khí mới thổi hồn vào trong tiếng Việt yêu thương của chúng ta.